Sách: Chủ nghĩa khắc kỷ – Phong cách sống bản lĩnh và bình thản | Part 19

PHẦN BỐN: CHỦ NGHĨA KHẮC KỶ TRONG CUỘC SỐNG HIỆN ĐẠI

19- Sự suy tàn của chủ nghĩa Khắc kỷ

Marcus Aurelius là một triết gia khắc kỷ và đồng thời cũng là Hoàng đế La Mã, người đàn ông quyền lực nhất thế giới phương Tây. Sự kết hợp này của triết học và chính trị có thể mang lại nhiều lợi ích cho chủ nghĩa Khắc kỷ, nhưng như chúng ta đã thấy, ông không tìm cách cải đạo, thay đổi người dân La Mã đi theo triết học. Vì thế, Marcus trở thành, theo lời của nhà sử học thế kỷ 19 W. E. H. Lecky, “đại diện cuối cùng và hoàn hảo nhất của chủ nghĩa Khắc kỷ La Mã”. Sau cái chết của ông, chủ nghĩa Khắc kỷ rơi vào cuộc khủng hoảng mà từ đó đến giờ nó vẫn chưa hồi phục.

Cũng như với bất cứ hiện tượng xã hội phức tạp nào, có nhiều yếu tố đằng sau sự suy tàn này. Chẳng hạn, Lecky (tôi được biết quan điểm của ông không còn được ủng hộ nữa) cho rằng tình trạng tham nhũng và suy đồi ngày càng gia tăng ở xã hội La Mã khiến cho chủ nghĩa Khắc kỷ – như chúng ta thấy, vốn đòi hỏi khả năng kiểm soát bản thân rất lớn – trở nên kém hấp dẫn với người dân La Mã. Nhà cổ điển M. L. Clarke đưa ra một lời giải thích khác: theo ông, chủ nghĩa Khắc kỷ suy tàn một phần vì thiếu những giáo viên dạy chủ nghĩa Khắc kỷ cuốn hút sau cái chết của Epictetus. Người có thể mô tả mạch lạc các nguyên tắc của một thứ triết lý không thiếu, nhưng một trong những điều tạo nên sức sống của chủ nghĩa Khắc kỷ lại nằm ở những giảng viên của nó. Ví dụ như Musonius và Epictetus, bên cạnh việc có thể giải thích rõ ràng về chủ nghĩa Khắc kỷ, họ còn là hiện thân của học thuyết này. Họ là bằng chứng sống cho thấy việc thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ sẽ mang lại nhiều lợi ích. Khi chủ nghĩa Khắc kỷ được dạy bởi người phàm, những học sinh tiềm năng sẽ rất khó mà bị cuốn theo nó.

Chủ nghĩa Khắc kỷ cũng bị suy yếu bởi sự trỗi dậy của Ki-tô giáo, một phần vì những tuyên bố của Ki-tô giáo cũng giống với chủ nghĩa Khắc kỷ. Chẳng hạn, các nhà Khắc kỷ nói rằng các vị Thần đã tạo ra loài người, quan tâm đến hạnh phúc của con người và ban cho anh ta một phẩm chất thần thánh (khả năng suy luận); Ki-tô giáo tuyên bố rằng Chúa tạo ra loài người, quan tâm đến anh ta theo một cách rất riêng, và ban cho anh ta một yếu tố thiêng liêng (một linh hồn). Cả chủ nghĩa Khắc kỷ và Ki-tô giáo đều bắt buộc con người vượt qua những ham muốn không lành mạnh và theo đuổi đức hạnh. Và lời khuyên của Marcus rằng chúng ta phải “yêu thương nhân loại” chắc chắn đã được nhắc tới trong Ki-tô giáo.

Bởi vì những điểm tương đồng này, các nhà Khắc kỷ và các tín đồ đạo Ki-tô lâm vào cảnh ganh đua nhau để thu hút các môn đồ tiềm năng. Tuy nhiên, trong cuộc cạnh tranh này, Ki-tô giáo có một lợi thế lớn hơn so với chủ nghĩa Khắc kỷ: Nó hứa hẹn không chỉ một cuộc sống sau khi chết mà còn là một thế giới bên kia nơi con người sẽ được hạnh phúc mãi mãi. Mặt khác, các nhà Khắc kỷ cho rằng có thể có kiếp sau nhưng không chắc chắn về điều đó, và nếu quả thực có cuộc sống sau khi chết thì các triết gia Khắc kỷ cũng không chắc nó sẽ trông như thế nào.

Kể từ sau cái chết của Marcus, chủ nghĩa Khắc kỷ dần trở nên mờ nhạt, chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện le lói trở lại. Chẳng hạn, vào thế kỷ XVII, René Descartes thổ lộ khuynh hướng Khắc kỷ của ông trong Discourse on Method (Bài giảng về Phương pháp). Có lúc ông mô tả về các câu châm ngôn rằng, nếu tuân theo chúng, ông sẽ được sống hạnh phúc nhất có thể. Câu thứ ba trong số các câu châm ngôn đó có thể được lấy từ câu của Epictetus: “Luôn luôn tìm cách chiến thắng bản thân tôi thay vì chiến thắng số phận, luôn tìm cách thay đổi những ham muốn của tôi thay vì thiết lập trật tự, và đại thể thì tin rằng chẳng có thứ gì hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của chúng ta ngoại trừ những ý nghĩ của ta, bởi thế, sau khi chúng ta đã cố gắng hết sức để thay đổi các vấn đề bên ngoài, những gì còn phải làm là hoàn toàn bất khả thi, ít nhất là ở mức độ chúng ta quan ngại.” (Nhân thể, hãy lưu ý rằng nội tại hóa mục tiêu trong lời khuyên của Descartes mang hàm ý là làm hết sức mình).

Vào thế kỷ 19, ảnh hưởng của phái Khắc kỷ có thể được tìm thấy ở các tác phẩm của triết gia người Đức Arthur Schopenhauer; các bài tiểu luận của ông Wisdom of Life (Trí tuệ cuộc sống) và Counsels and Maxims (Khuyên nhủ và phương châm), dù không thể hiện rõ ràng khuynh hướng Khắc kỷ, nhưng mang màu sắc Khắc kỷ rõ rệt. Đồng thời, băng qua Đại Tây Dương, ảnh hưởng của chủ nghĩa Khắc kỷ có thể được tìm thấy trong các tác phẩm của các triết gia trường phái siêu nghiệm New England. Ví dụ, Henry David Thoreau, dù không trực tiếp đề cập đến chủ nghĩa Khắc kỷ hay bất kỳ triết gia Khắc kỷ vĩ đại nào trong kiệt tác Walden của ông, nhưng với những người biết mình cần tìm kiếm thứ gì, ảnh hưởng của phái Khắc kỷ vẫn luôn hiện diện. Thoreau rất thẳng thắn trong Journal. Chẳng hạn, ông viết thế này “Triết gia Khắc kỷ Zeno cũng hoàn toàn ở trong mối tương quan với thế giới giống như tôi lúc này vậy.”

Giống như các nhà Khắc kỷ, Thoreau cũng quan tâm đến việc phát triển một triết lý sống. Theo học giả nghiên cứu về Thoreau, Robert D. Richardson, “Ông lúc nào cũng đau đáu một câu hỏi thực tế, làm thế nào tôi có thể sống tốt nhất cuộc sống hằng ngày của mình?” và cuộc đời ông có thể được xem như, Richardson cho hay, “một nỗ lực liên tục để tìm ra ý nghĩa thực tế cụ thể của tư tưởng Khắc kỷ mà những quy luật chi phối thiên nhiên cũng chi phối cả con người nữa.” Thoreau đến đầm Walden để thực hiện thử nghiệm kéo dài hai năm nổi tiếng của ông về lối sống tối giản, chủ yếu để ông có thể trau chuốt triết lý sống của mình và bằng cách ấy tránh sống lầm lỗi: ông nói với chúng ta, động cơ chính của ông khi chuyển đến sống ở Walden là vì ông sợ rơi vào tình huống “khi sắp chết tôi mới nhận ra mình chưa từng sống.”

Một số bạn hữu và hàng xóm của ông, có thể hoặc không nhận ra ông bị cuốn hút theo chủ nghĩa Khắc kỷ, đã buộc tội Thoreau là kẻ vô cảm – tức là người không cảm xúc và khắc nghiệt. Richardson cho rằng những cáo buộc này là thiếu cơ sở. Dù những người xung quanh ông chưa thấy rõ, Thoreau dường như đã trải nghiệm được thứ niềm vui mà các nhà Khắc kỷ truy cầu. Do đó, chúng ta thấy Thoreau tuyên bố rằng “chắc chắn niềm vui là trạng thái của cuộc sống.” Còn cuốn Journal của Thoreau, Richardson nhận xét, “chứa đầy những bình luận phản ánh sự thích thú, niềm khao khát trải nghiệm, sự nhạy bén của các giác quan của ông ấy, niềm vui tột đỉnh vì còn được sống.”

Trong suốt thế kỷ 20, chủ nghĩa Khắc kỷ là một học thuyết bị lãng quên. Thật vậy, theo triết gia Martha Nussbaum, các nhà triết học thế kỷ 20, ở cả châu Âu và Bắc Mỹ, ít dùng đến triết lý Khắc kỷ và những triết lý Hy Lạp khác – có thể là chủ nghĩa Khoái lạc và chủ nghĩa Yếm thế – hơn “hầu hết các triết học ở phương Tây kể từ thế kỷ thứ tư TCN”. Đến đầu thiên niên kỷ, đối với đa số mọi người, chủ nghĩa Khắc kỷ là một thứ triết lý sống không có triển vọng gì. Bởi một lẽ, họ thấy không cần thiết phải sống theo một triết lý. Và những người đã giác ngộ đang kiếm tìm một triết lý sống hiếm khi nào xem chủ nghĩa Khắc kỷ là một ứng viên khả thi. Họ tin chắc rằng mình biết chủ nghĩa Khắc kỷ là gì: Một học thuyết mà môn đồ của nó toàn là những kẻ buồn tẻ, khắc nghiệt và vô cảm. Có điên mới tham gia vào một nhóm như thế.

Nếu cuốn sách này đã hoàn thành nhiệm vụ của nó, bạn đọc sẽ nhận ra mình đã hiểu sai một cách tai hại đặc điểm này của chủ nghĩa Khắc kỷ. Các nhà Khắc kỷ không hề vô cảm, khắc nghiệt! Cũng như cuộc sống của họ không hề u ám, sầu thảm! Quả thực, họ có nhiều khả năng trải nghiệm niềm vui hơn đa số người bình thưởng.

Tuy nhiên, nhận thức này hiếm khi đủ để vượt qua mối ác cảm của nhiều người đối với chủ nghĩa Khắc kỷ. Ngay cả khi họ công nhận rằng các nhà Khắc kỷ là những người đầy đủ chức năng, có khả năng tận hưởng niềm vui và xứng đáng nhận được sự ngưỡng mộ của chúng ta, họ vẫn giữ một thái độ ác cảm nhất định đối với học thuyết này. Bây giờ chúng ta hãy cùng tìm hiểu một vài nguyên do khiến con người hiện đại giữ thái độ ác cảm đối với chủ nghĩa Khắc kỷ, bắt đầu với lập luận rằng nếu tâm lý học hiện đại là đúng, chủ nghĩa Khắc kỷ là một triết lý sống bị nhiều người hiểu sai.

Các nhà Khắc kỷ có nhiều hiểu biết sâu sắc quan trọng về tâm lý học. Chẳng hạn, họ nhận ra rằng thứ khiến cho những lời lăng mạ gây đau đớn cho ta là do cách chúng ta diễn giải chúng hơn là nằm ở bản thân lời lăng mạ. Họ cũng nhận ra bằng cách dấn thân vào tưởng tượng tiêu cực, chúng ta có thể làm cho bản thân trở nên hạnh phúc với những thứ mà ta đã có và nhờ thế chống lại khuynh hướng tham lam vô độ, không bao giờ thỏa mãn của chúng ta.

Những người chống chủ nghĩa Khắc kỷ có thể thừa nhận rằng đó là những tuệ giác quan trọng, nhưng tiếp tục chỉ ra rất nhiều điều đã xảy ra trong hai thiên niên kỷ kể từ khi các triết gia Khắc kỷ La Mã suy ngẫm về tâm lý con người. Đặc biệt, thế kỷ 20 đã chứng kiến sự chuyển đổi của tâm lý học thành một ngành học hợp thức. Những người chống chủ nghĩa Khắc kỷ có thể bổ sung thêm rằng một trong những khám phá tâm lý quan trọng nhất trong hàng trăm năm qua là nhận ra mối nguy hiểm mà chúng ta đang gây ra cho mình nếu chúng ta cố gắng chế ngự cảm xúc, giống như cách làm của các nhà Khắc kỷ. Thật vậy, quan điểm đồng thuận ở các nhà trị liệu tâm lý là chúng ta nên giữ liên lạc với các cảm xúc của mình: Thay vì tìm cách phủ nhận sự tồn tại của chúng, ta nên suy ngẫm về chúng, và thay vì cố gắng kiềm chế chúng, ta nên xả ra. Và nếu ta thấy mình bị những cảm xúc tiêu cực quấy rầy, ta không nên cố gắng tự mình xử lý chúng mà hãy chia sẻ với một nhà tham vấn tâm lý, bởi vì công việc của họ là thấu hiểu cách tâm trí con người hoạt động.

Để minh họa, ta hãy xem xét về nỗi đau thương. Tâm lý học hiện đại đã chỉ ra (những người chống chủ nghĩa Khắc kỷ sẽ giải thích) rằng đau thương là một phản ứng hoàn toàn tự nhiên trước một thảm kịch cá nhân. Một người đang đau buồn nên trút nỗi đau của anh ta ra ngoài chứ không nên kìm nén. Nếu anh ta cảm thấy muốn khóc thì anh ta nên khóc. Anh ta nên chia sẻ cảm xúc với bạn bè và người thân và có lẽ nên tìm sự trợ giúp của một chuyên gia tham vấn về nỗi đau, người định kỳ sẽ gặp anh ta, nói chuyện với anh ta về nỗi đau và giúp anh ta vượt qua nó. Nhưng nếu anh ta làm theo lời khuyên của các triết gia Khắc kỷ và cố gắng đè nén nỗi đau của mình, anh ta có thể tránh được nỗi đau buồn trong ngắn hạn, nhưng anh ta đang tự đưa mình vào tình trạng suy nhược của “nỗi đau bị trì hoãn” nhiều tháng hoặc thậm chí nhiều năm sau đó.

Chắc chắn đúng là một số người, trong một số trường hợp nào đó, có thể được hưởng nhiều lợi ích từ tham vấn đau buồn. Tuy nhiên quan điểm đồng thuận giữa các nhà tâm lý học là gần như tất cả mọi người đều thu được lợi ích, và niềm tin này đã làm thay đổi cách mà các nhà chức trách ứng phó với các thảm họa tự nhiên và nhân tạo. Ngày nay, sau khi làm xong những gì cần thiết để cứu sống các nạn nhân, nhà chức trách sẽ nhanh chóng gọi cho các chuyên gia tham vấn về đau thương để giúp đỡ những nạn nhân sống sót sau thảm họa, những người mất người thân trong thảm họa và những người chứng kiến. Chẳng hạn, khi tòa nhà liên bang Alfred P. Murrah ở thành phố Oklahoma bị đánh bom khủng bố năm 1995, giết chết 168 người, một nhóm các chuyên gia tham vấn đau buồn đã đến thành phố để giúp người ta vượt qua nỗi đau. Tương tự vậy, vào năm 1999, khi ba chục người bị bắn bởi hai học sinh hung hãn ở trường trung học Columbine ở Litleton, Colorado, một nhóm các nhà tham vấn đau buồn được cử đến để giúp những học sinh sống sót, cha mẹ họ và các thành viên của cộng đồng ứng phó với đau thương.

Chúng ta học hỏi được nhiều khi đối chiếu những cách ứng phó với thảm họa này với biện pháp mà nhà chức trách ứng phó với thảm họa vào giữa thế kỷ 20. Chẳng hạn, khi một trận lở đất của chất thải từ mỏ than chôn vùi một trường làng ở Aberfan, South Wales, năm 1966, cha mẹ của 116 đứa trẻ bị chết đã phải tự mình đương đầu với nỗi đau thương của họ. Kết quả là nhiều người trong số họ đơn giản là chịu đựng bi kịch này, theo cách nói của người Anh là, tỏ ra mạnh mẽ và giữ kín tâm tư. Vào cuối thế kỷ này, ta khó mà tìm thấy một nhà trị liệu tâm lý nào lại đi khuyên hãy che giấu cảm xúc và tỏ ra mạnh mẽ như một cách phản ứng thích hợp trước thảm kịch.

Để đáp lại lời phê phán nhắm vào tâm lý học Khắc kỷ này, tôi xin nhắc các bạn độc giả rằng mặc dù trái ngược với tư tưởng đang thịnh hành, các nhà Khắc kỷ không hề ủng hộ chúng ta “chôn chặt” cảm xúc của mình. Họ khuyên chúng ta thực hiện các biện pháp để ngăn ngừa các cảm xúc tiêu cực và vượt qua chúng khi nỗ lực ngăn ngừa chúng của chúng ta thất bại, nhưng điều này khác hẳn với việc chôn chặt cảm xúc: Nếu chúng ta ngăn ngừa hay vượt qua một cảm xúc, thì trong ta chẳng còn cảm xúc nào nữa để mà chôn giấu.

Cụ thể, giả sử một người Khắc kỷ thấy mình đang khóc than trước sự ra đi của một người thân yêu. Ta cần lưu ý rằng, người Khắc kỷ này sẽ không phản ứng lại bằng cách cố gắng bóp nghẹt nỗi đau trong lòng anh ta – chẳng hạn, bằng cách vờ rằng anh ta không thấy đau buồn hoặc bằng cách nhăn mặt để không rơi lệ. Thay vào đó anh ta sẽ nhớ lại lời nhận xét của Seneca với Polybius rằng khi con người trải qua những thảm kịch cá nhân, cảm thấy đau thương là điều vô cùng tự nhiên. Tuy nhiên, sau cơn suy sụp này, một người Khắc kỷ sẽ cố gắng xua đi những nỗi đau còn sót lại trong anh ta bằng cách tìm kiếm một lời giải thích hoặc giải pháp cho nó. Cụ thể, anh ta sẽ viện dẫn những lập luận mà Seneca sử dụng trong lời an ủi của ông ấy: “Đây có phải là điều mà người đã khuất muốn tôi làm không? Tất nhiên là không! Cô ấy sẽ mong cho tôi được hạnh phúc! Cách tốt nhất để tưởng nhớ cô ấy đó là thôi buồn đau và đứng lên sống tiếp.”

Bởi thương tiếc là thứ cảm xúc tiêu cực, nên người Khắc kỳ chống lại nó. Đồng thời, họ cũng hiểu rằng vì chúng ta là người phàm tục nên một số nỗi đau buồn là không thể tránh khỏi trong cuộc đời, cũng như dăm ba nỗi sợ, một vài nỗi lo, đôi ba cơn giận, ghét bỏ, nhục nhã và ganh tỵ. Mục tiêu của người Khắc kỷ do đó không phải là xóa sạch buồn đau mà là giảm thiểu nó.

Đến đây, một người chống chủ nghĩa Khắc kỷ có thể cho rằng mục tiêu giảm bớt nỗi đau, dù ít sai hơn mục tiêu đè nén nó, nhưng vẫn sai lầm. Theo các chuyên gia tham vấn tâm lý, chúng ta nên vượt qua nỗi đau của mình. Đúng là cố gắng tìm kiếm một lời giải thích hay giải pháp để thoát khỏi nỗi đau buồn là một cách để vượt qua nó, nhưng có một cách tốt hơn là thử suy ra từ chính bản thân ta đủ loại hành vi liên quan đến nỗi đau buồn; chẳng hạn, chúng ta có thể cố gắng khóc một trận đã đời mặc dù ta không cảm thấy muốn khóc. Chúng ta cũng có thể cố gắng tâm sự với người khác về nỗi đau của ta, mặc dù ta vốn không quen với kiểu chia sẻ cảm xúc này. Quan trọng nhất, nếu nỗi đau của chúng ta quá lớn, chúng ta sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ của một nhà tham vấn nỗi buồn đau để giúp chúng ta trong quá trình vượt qua nó.

Để đáp lại điều này, tôi sẽ thách thức tư tưởng tâm lý hiện tại về cách thức tốt nhất để ứng phó với các cảm xúc của chúng ta. Cụ thể, tôi sẽ chất vấn lời tuyên bố của nhiều nhà trị liệu tâm lý rằng con người không được trang bị tốt để tự mình ứng phó với nỗi đau buồn của họ. Tôi cho rằng con người không mong manh dễ vỡ, mà thực tế tinh thần họ kiên cường hơn các nhà trị liệu tưởng.

Để hiểu lý do tại sao tôi nói điều này, chúng ta hãy hướng sự chú ý đến thảm họa Aberfan. Những bậc cha mẹ có con bị chôn sống trong trận lở đất ở Aberfan trải qua một thảm kịch cá nhân đau xót mà không hề nhận được sự hỗ trợ của chuyên gia sau đó. Theo quan điểm đồng thuận của các tâm lý gia ngày nay, không nhận được sự tham vấn tâm lý lẽ ra nên biến những bậc cha mẹ đó thành người dễ suy sụp tinh thần. Nhưng sự thật là tự họ đã có cách ứng phó phi thường trước thương đau. Nói cách khác, kỹ thuật che giấu nỗi buồn/tỏ vẻ mạnh mẽ dường như đã giúp họ rất nhiều.

Thêm một ví dụ khác về những hậu quả khi tự mình đối phó với những cảm xúc tiêu cực, hãy xem xét tình cảnh khốn khổ của người dân Anh trong Thế chiến thứ hai. Khi chiến tranh nổ ra, các nhà tâm lý lo ngại rằng các bệnh viện tâm thần sẽ quá tải những thường dân không có khả năng đương đầu với sự khủng khiếp của chiến tranh. Nhưng hóa ra người Anh thừa khả năng tự lo liệu cho mình, về mặt tâm lý mà nói: Không có sự thay đổi về tỷ lệ mắc bệnh tâm thần. Khi thiếu các nhà tham vấn đau thương chuyên nghiệp, người dân Anh không còn lựa chọn nào khác ngoài tự mình đương đầu với gian nan thử thách bằng tinh thần Khắc kỷ, và đối với họ, tự trị liệu cho mình bằng chủ nghĩa Khắc kỷ đã chứng tỏ là mang lại thành công lớn.

Đã đủ tệ rồi nếu như tham vấn về nỗi đau buồn không đạt hiệu quả. Nhưng trong một số trường hợp, việc tham vấn kiểu như vậy có vẻ như chỉ tăng cường và kéo dài nỗi sầu khổ của con người; nói cách khác, nó chỉ làm tình hình tệ đi. Một nghiên cứu về tính hiệu quả của tham vấn đau buồn đã kiểm tra các bậc cha mẹ có con chết vì Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh. Nó so sánh những bậc cha mẹ cố gắng vượt qua mất mát của họ, theo các nguyên tắc của phương pháp trị liệu nỗi đau, với các bậc cha mẹ không làm theo liệu pháp này. Ba tuần sau cái chết của con họ, các bậc cha mẹ trong nhóm đầu tiên đã trải qua nhiều đau khổ hơn so với cha mẹ trong nhóm thứ hai, và thậm chí sau mười tám tháng, các bậc cha mẹ trong nhóm đầu tiên còn tệ hơn các bậc cha mẹ trong nhóm hai, về mặt tâm lý. Kết luận rõ ràng rút ra từ nghiên cứu này đó là “cưỡng ép nỗi buồn” theo các nguyên tắc của trị liệu nỗi đau, thay vì chữa lành nỗi đau, có thể trì hoãn quá trình chữa lành tự nhiên; xét về mặt tâm lý, nó tương đương với việc chọc vào vết thương. Nhân tiện, nghiên cứu tương tự tập trung vào những người sống sót sau thảm họa diệt chủng, phụ nữ trẻ bị lạm dụng và bạn tình của những người đàn ông chết vì AIDS và đã thu được kết quả tương tự.

Nhưng còn việc trì hoãn nỗi đau thì sao? Nếu chúng ta rút ngắn quá trình đau buồn, chẳng phải chúng ta đang đặt mình vào tình trạng đau buồn nhiều hơn về sau? Các chuyên gia tâm lý đều đồng lòng nhất trí rằng hiện tượng trì hoãn nỗi đau là có thật. Tôi có đang cho rằng họ sai không?

Thật sự là vậy. Khái niệm trì hoãn nỗi buồn có vẻ như xuất hiện lần đầu tiên trong một bài báo có tựa đề “The Absence of Grief,” (Sự vắng mặt của nỗi đau) được viết vào năm 1937, tác giả là bác sỹ tâm thần Helene Deutsch. Bà cho rằng những ai không cảm thấy đau thương sau khi trải qua một mất mát cá nhân thì sau đó sẽ kích hoạt một cơn đau buồn bị trì hoãn – trở nên “rõ ràng và mãnh liệt như thể nỗi mất mát chỉ mới xảy ra.” Thật không may, Deutsch không nỗ lực để kiểm chứng lý thuyết của bà ấy bằng thực nghiệm. Về sau, các nhà nghiên cứu đã cố gắng để kiểm tra điều đó nhưng đều thất vọng: Các trường hợp trì hoãn nỗi buồn dường như rất hiếm gặp.

Nói chung, nhà tâm thần học Sally Satel và nhà triết học Christina Hoff Sommers, trong một cuốn sách thách thức một vài khía cạnh của trị liệu tâm lý thời hiện đại, viết rằng, “Các phát hiện gần đây cho rằng tính trầm lặng và đè nén cảm xúc, thay vì gây nguy hại cho sự khỏe mạnh về tâm lý của con người, có thể là lành mạnh và linh động. Đối với nhiều người có cá tính, sự tập trung quá mức vào việc xem xét nội tâm và giãi bày tâm sự chỉ khiến họ thêm não nề. Những nạn nhân của mất mát và bi kịch có những cách phản ứng rất khác nhau: Một số người nhận được lợi ích từ việc can thiệp trị liệu; phần lớn thì không và họ cũng không nên bị các chuyên gia về sức khỏe tinh thần ép buộc đi theo cách phản ứng đúng đắn về cảm xúc. Các nhà tham vấn về sang chấn tâm lý và đau thương đã mắc sai lầm rất lớn về phương diện này.” Các tác giả này nói thêm rằng họ bác bỏ học thuyết, hiện đang được chấp nhận rộng rãi, rằng “tự do cởi mở cảm xúc là điều thiết yếu cho sức khỏe tinh thần.”

Tóm lại, mặc dù lời khuyên của các nhà Khắc kỷ về cách xử lý những cảm xúc tiêu cực là lỗi thời, dù sao đi nữa nó vẫn sẽ là lời khuyên hữu ích. Theo Seneca, “Một người sẽ mãi khốn khổ chừng nào anh ta còn tự thuyết phục mình tin vào điều đó.” Do đó ông ấy khuyên chúng ta “chấm dứt việc phàn nàn về những khổ đau trong quá khứ và dẹp hết tất cả những lối nói kiểu như thế này “Trên đời này không có ai khổ bằng tôi. Cõi đời này có khổ đau gì, tai họa gì tôi cũng đều nếm đủ cả!” Rốt cuộc thì, bạn dựa vào đâu để tin rằng “chỉ vì bạn từng một lần không hạnh phúc, cả đời bạn sẽ không hạnh phúc?”

Chính trị thời hiện đại đưa ra một trở ngại khác cho việc chấp nhận chủ nghĩa Khắc kỷ. Thế giới này đầy rẫy những chính trị gia bảo với chúng ta rằng nếu đời ta bất hạnh thì đấy chẳng phải lỗi do ta. Trái lại, bất hạnh của chúng ta là do những việc mà chính phủ đã làm với chúng ta hoặc không làm cho ta. Những công dân chúng ta trong công cuộc mưu cầu hạnh phúc được khuyến khích sử dụng chính trị hơn là triết học. Chúng ta được động viên đi biểu tình trên phố hay viết thư cho đại biểu quốc hội thay vì đọc sách của Seneca hay Epictetus. Đáng lưu ý hơn, chúng ta được khích lệ bầu cho ứng viên nào tuyên bố họ có khả năng làm chúng ta hạnh phúc, bằng cách khéo léo sử dụng quyền lực của chính phủ.

Tất nhiên các triết gia Khắc kỷ phản đối lối suy nghĩ đó. Họ tin chắc rằng thứ đứng giữa đa số chúng ta và hạnh phúc không phải là chính phủ hay xã hội, mà là những thiếu sót, khiếm khuyết trong triết lý sống của chúng ta – hoặc do chúng ta không hề có một triết lý sống nào. Đành rằng chính phủ và xã hội định đoạt, ở một mức độ đáng kể, những hoàn cảnh sống bên ngoài của ta, nhưng các nhà Khắc kỷ hiểu rằng thực sự chỉ có một mối quan hệ lỏng lẻo giữa hoàn cảnh bên ngoài với mức độ hạnh phúc của chúng ta. Cụ thể là, một ai đó bị đày ra hoang đảo hoàn toàn có thể sống hạnh phúc hơn một người đang sống cuộc đời nhung lụa xa hoa.

Các nhà Khắc kỷ hiểu rằng chính phủ có thể gây tổn hại đến công dân của họ; quả thực, các nhà Khắc kỷ La Mã như ta đã thấy, thường không may khi bị trừng phạt bất công bởi nhà cầm quyền. Các nhà Khắc kỷ cũng đồng ý rằng các nhà cải cách xã hội thời hiện đại chúng ta có bổn phận đấu tranh chống lại sự bất công xã hội. Điểm khác biệt giữa họ với các nhà cải cách xã hội hiện đại nằm ở sự thông hiểu của họ về tâm lý con người. Cụ thể là, các nhà Khắc kỷ không nghĩ rằng việc con người tự xem bản thân mình là nạn nhân của xã hội – hay nạn nhân của bất cứ thứ gì – là một điều tốt. Nếu bạn xem mình là nạn nhân, bạn sẽ không thể có được cuộc sống tốt đẹp; tuy nhiên nếu bạn từ chối coi mình là nạn nhân – nếu bạn không cam chịu để cho cái tôi bên trong bạn bị khuất phục bởi hoàn cảnh bên ngoài – bạn có khả năng có được một cuộc sống tốt, bất kể hoàn cảnh bên ngoài biến đổi ra sao. (Đặc biệt, các nhà Khắc kỷ cho rằng con người ta có khả năng giữ được sự bình thản mặc cho việc bị trừng phạt vì nỗ lực sửa đổi xã hội của anh ta.)

Những người khác có thể có khả năng ảnh hưởng đến cách bạn sống và thậm chí chuyện sống chết của bạn, nhưng theo các nhà Khắc kỷ, họ không có khả năng hủy hoại cuộc sống của bạn. Chỉ bạn mới có khả năng hủy hoại nó, bởi vì bạn không sống theo những giá trị đúng đắn.

Các nhà Khắc kỷ tin vào cải cách xã hội, nhưng họ cũng tin vào sự biến chuyển của cá nhân. Chính xác hơn, họ tin rằng bước đầu tiên để thay đổi một xã hội thành một nơi mà mọi người có cuộc sống tốt đẹp là dạy cho người dân cách làm hạnh phúc của họ càng ít phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài càng tốt. Bước thứ hai để thay đổi một xã hội là thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con người. Các nhà Khắc kỷ sẽ nói thêm là nếu chúng ta không chuyển hóa được bản thân mình thì bất kể chúng ta thay đổi xã hội mà ta đang sống nhiêu ra sao, chúng ta cũng khó mà có được một cuộc đời tốt đẹp.

Nhiều người từng tin rằng hạnh phúc là một thứ gì đó mà người khác, một nhà trị liệu tâm lý hay một chính trị gia, phải trao cho chúng ta. Chủ nghĩa Khắc kỷ phản đối quan điểm này. Nó dạy chúng ta rằng ta phải chịu trách nhiệm cho hạnh phúc cũng như bất hạnh của bản thân. Nó cũng dạy chúng ta rằng chỉ khi nào chúng ta chịu trách nhiệm cho hạnh phúc của mình thì chúng ta mới có cơ hội đạt được nó. Đây chắc chắn là một thông điệp mà nhiều người, từng bị nhồi sọ bởi các nhà trị liệu và chính trị gia, không muốn nghe.

Nếu tâm lý học hiện đại và chính trị từng đối xử thiếu tử tế với chủ nghĩa Khắc kỷ, thì triết học hiện đại cũng đang làm như vậy. Trước thế kỷ 20, những người đã tiếp xúc với triết học có lẽ đã đọc về các nhà Khắc kỷ. Nhưng trong thế kỷ 20, các nhà triết học không chỉ mất hứng thú với chủ nghĩa Khắc kỷ mà còn chẳng buồn chú ý đến các triết lý về cuộc sống nói chung. Kinh nghiệm của tôi cho thấy, người ta có thể dành một thập kỷ để tham dự các lớp triết học mà không cần đọc về các triết gia Khắc kỷ và không bỏ thời gian để xem xét các triết lý về cuộc sống, huống chi là đi theo một triết lý sống.

Một lý do khiến các nhà triết học mất hứng thú với chủ nghĩa Khắc kỷ là bởi sự hiểu biết của họ. Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, nhiều nan đề triết học truyền thống nảy sinh do cách sử dụng ngôn ngữ tùy tiện, cẩu thả của chúng ta. Từ đây suy ra bất cứ ai muốn giải quyết các nan đề của triết học thì không phải bằng cách quan sát loài người (như các triết gia Khắc kỷ hay làm) mà bằng cách suy nghĩ rất cẩn thận về ngôn ngữ và cách sử dụng nó. Và cùng với việc ngày càng chú trọng phân tích ngôn ngữ, trong giới các nhà triết học đã xuất hiện một niềm tin rằng khuyên bảo con người nên sống thế này thế kia đơn giản không phải là công việc của triết học.

Nếu bạn đến gặp Epictetus và nói, “Tôi muốn sống một cuộc đời tốt đẹp. Tôi nên làm gì?” ông ấy sẽ có một câu trả lời dành cho bạn: “Sống thuận theo tự nhiên.” Sau đó ông ấy sẽ giải thích rất chi tiết cho bạn cách thực hiện việc này. Ngược lại, nếu bạn tìm đến một triết gia phân tích ở thế kỷ 20 và cũng hỏi câu tương tự, ông ấy có thể sẽ đáp lại không phải bằng cách trả lời câu hỏi bạn đưa ra mà bằng cách phân tích bản thân câu hỏi: “Câu trả lời cho câu hỏi của bạn phụ thuộc vào định nghĩa của bạn như thế nào là ‘một cuộc đời tốt đẹp, đến lượt nó lại phụ thuộc vào cách mà bạn cắt nghĩa thế nào là ‘tốt đẹp’ và ‘một cuộc đời’.” Sau đó ông ấy có thể giải thích tường tận cho bạn tất cả những điều mà bạn muốn nói khi hỏi làm thế nào để sống một cuộc đời tốt đẹp và lý giải tại sao từng ý lại rối rắm về mặt lô-gic. Kết luận của ông ấy: Thật vô nghĩa khi đặt câu hỏi làm thế nào để sống một cuộc đời tốt đẹp. Khi triết gia này nói xong, bạn có thể bị ấn tượng trước năng lực phân tích triết học của ông ta, nhưng bạn cũng có thể rút ra kết luận, với lý do chính đáng, rằng bản thân ông ta cũng đang thiếu một triết lý sống chặt chẽ, nhất quán.

Một điều cuối cùng nhưng khá cam go để con người thời hiện đại chấp nhận chủ nghĩa Khắc kỷ nằm ở mức độ kiểm soát bản thân mà nó yêu cầu. Chúng ta có phát hiện ra lòng ham muốn danh tiếng trong mình hay không? Theo các nhà Khắc kỷ, chúng ta nên dập tắt ham muốn này. Chúng ta thấy mình đang khao khát sở hữu một căn biệt thự với đầy món đồ nội thất cao cấp? Các nhà Khắc kỷ cho rằng nếu khôn ngoan thì chúng ta nên biết hài lòng với một lối sống đơn giản. Và bên cạnh việc chế ngự được ham muốn đối với danh vọng và tài sản, các nhà Khắc kỷ muốn chúng ta gạt bỏ những ham muốn cá nhân khác qua một bên để có thể thực hiện các bổn phận phục vụ đồng loại. Như ta đã thấy, họ là một nhóm người sống có trách nhiệm; không giống như nhiều người thời hiện đại, các nhà Khắc kỷ tin chắc rằng trong cuộc sống, có một thứ gì đó còn lớn lao hơn cả bản thân họ.

Nhiều người sau khi được biết rằng chủ nghĩa Khắc kỷ đòi hỏi sự kiểm soát bản thân, họ sẽ gạt phăng thứ triết lý này. Bởi họ cho rằng, nếu bạn không có được thứ mà bạn muốn thì bạn rõ ràng sẽ không vui nổi. Vì thế, cách tốt nhất để có được hạnh phúc là có được thứ mình muốn, và cách tốt nhất để có được thứ bạn muốn là bằng chiến lược ba giai đoạn: Đầu tiên, bạn cần kiểm kê lại tất cả những ham muốn đang ẩn nấp trong tâm trí; thứ hai, vạch ra một kế hoạch để đáp ứng những ham muốn đó; và thứ ba, thực hiện kế hoạch đó. Tuy nhiên, các nhà Khắc kỷ khuyến nghị chúng ta làm ngược lại. Trong một số trường hợp, họ khuyên chúng ta hãy dập tắt thay vì thỏa mãn những ham muốn của mình, và trong những trường hợp khác, họ khuyên ta làm những việc mà ta không muốn làm, vì chúng ta có bổn phận phải thực hiện chúng. Nói cách khác, chủ nghĩa Khắc kỷ nghe giống như một công thức chắc chắn cho sự bất hạnh.

Mặc dù chiến lược đạt được hạnh phúc bằng cách nỗ lực để có được bất cứ thứ gì mà ta muốn rõ ràng được nhiều người sử dụng xuyên suốt lịch sử và khắp các nền văn hóa, nhưng nó có một nhược điểm quan trọng, vì những người thâm trầm trong lịch sử và ở khắp các nền văn hóa đã ngộ ra: Đối với mỗi ham muốn mà chúng ta tìm cách thỏa mãn theo chiến lược này, một ham muốn mới sẽ xuất hiện thế chỗ cho ham muốn cũ trong tâm trí ta. Điều này có nghĩa là cho dù chúng ta cố gắng đến mức nào để thỏa mãn các ham muốn của mình, nó vẫn chẳng giúp chúng ta thỏa mãn là bao so với việc ta không thỏa mãn chúng. Nói cách khác, chúng ta vẫn cảm thấy bất mãn.

Một cách tốt hơn nhiều, mặc dầu khó nhận ra, để đạt được sự thỏa mãn, không phải bằng cách cố gắng thỏa mãn mọi ham muốn, mà là cố gắng làm chủ ham muốn. Cụ thể là, chúng ta cần thực hiện các phương pháp nhằm làm chậm quá trình hình thành ham muốn trong chúng ta. Thay vì cố gắng đáp ứng bất cứ ham muốn nào xuất hiện trong đầu mình, chúng ta cần nỗ lực ngăn chặn sự hình thành của những ham muốn nào đó và tiêu diệt nhiều ham muốn đã được tạo ra. Và thay vì muốn những thứ mới, ta cần tập cho mình yêu thích những thứ ta đã có.

Đây là những việc mà các triết gia Khắc kỷ khuyên chúng ta nên làm. Đành rằng việc trở thành một người Khắc kỷ yêu cầu chúng ta có khả năng kiểm soát bản thân và chúng ta cần hy sinh để thực hiện các bổn phận của mình, nhưng các nhà Khắc kỷ cho rằng chúng ta có nhiều khả năng đạt được hạnh phúc bằng cách đi theo con đường này hơn là dành những năm tháng cuộc đời mình để cố gắng thỏa mãn bất kỳ ham muốn nào đột ngột hiện lên trong đầu như phần lớn mọi người.

Khi nói về điều này, tôi xin bổ sung thêm rằng từ hy sinh mà tôi vừa dùng chưa hoàn toàn chuẩn xác. Các nhà Khắc kỷ, trong khi đang thực hiện trách nhiệm xã hội của họ, sẽ không xem đó là sự hy sinh. Nhờ thực hành chủ nghĩa Khắc kỷ, lý tưởng nhất là họ sẽ muốn làm những việc mà bổn phận xã hội đòi hỏi họ thực hiện. Nếu bạn thấy điều này có vẻ lạ lùng, thì hãy nghĩ về những bổn phận liên quan đến việc nuôi dạy con cái. Các bậc cha mẹ làm rất nhiều cho con họ, nhưng bố mẹ Khắc kỷ – và theo tôi, các bậc phụ huynh tốt nói chung – sẽ không coi việc nuôi dạy con cái là một gánh nặng đòi hỏi sự hy sinh vô tận; thay vào đó, họ nghĩ thật tuyệt vời làm sao khi có con và có thể tạo ra một sự khác biệt tích cực trong cuộc sống của con trẻ.

Như tôi đã nói, không chỉ có mỗi mình các nhà Khắc kỷ tuyên bố rằng hy vọng tốt nhất của chúng ta để có được hạnh phúc không phải là sống một cuộc đời buông thả, nuông chiều bản thân, mà là sống một cuộc đời tự kỷ luật, và ở một mức độ nào đó là với tinh thần hy sinh, quên mình. Những tuyên bố tương tự cũng được nhắc đến ở các trường phái triết học khác, bao gồm phái Epicurean và chủ nghĩa Yếm thế, cũng như ở nhiều tôn giáo như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kitô giáo, Hồi giáo và Đạo giáo. Tôi tin rằng, vấn đề không phải là liệu những người kỷ luật bản thân và có tinh thần trách nhiệm có thể sống cuộc đời hạnh phúc, ý nghĩa hay không; mà là liệu những kẻ thiếu khả năng tự kiểm soát bản thân và những ai tin chắc rằng trên đời này chẳng có điều gì lớn lao hơn chính bản thân họ có thể có cuộc đời tốt đẹp không.

>>> Quay lại trang: Mục lục

Chia sẻ để phát triển cộng đồng:

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Donate cho tác giả tại đây để duy trì website và phát triển thêm những nội dung hữu ích khác.

Related Posts

0 0 votes
Article Rating
guest

0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments